Luật sửa đổi, bổ sung một số điều Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/12/2021

402 lượt xem

Kể từ ngày 01/12/2021, Luật số 02/2021/QH15 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng Hình sự số 101/2015/QH13 chính thức có hiệu lực thi hành. Theo đó, Luật số 02/2021/QH15 với một số điểm nổi bật sau:

1. Bổ sung trách nhiệm kiểm tra, xác minh sơ bộ khi tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm đối với Công an xã

Cụ thể, nội dung về trách nhiệm của công an xã trong tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm được sửa đổi, bổ sung như sau:

– Sửa đổi, bổ sung khoản 3 Điều 146 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015:

“Điều 146. Thủ tục tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố

3. Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, lập biên bản tiếp nhận, tiến hành kiểm tra, xác minh sơ bộ và chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo tài liệu, đồ vật có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.”

– Sửa đổi, bổ sung Điều 44 của Luật Tổ chức Cơ quan điều tra hình sự 2015:

“Điều 44. Trách nhiệm của Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an

1. Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, lập biên bản tiếp nhận, tiến hành kiểm tra, xác minh sơ bộ và chuyển ngay tố giác, tin báo về tội phạm kèm theo các tài liệu, đồ vật có liên quan cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.

2. Trường hợp Công an xã, phường, thị trấn, Đồn Công an phát hiện, bắt giữ, tiếp nhận người phạm tội quả tang, người đang bị truy nã thì thu giữ, tạm giữ vũ khí, hung khí và bảo quản tài liệu, đồ vật có liên quan, lập biên bản bắt người, lấy lời khai ban đầu, bảo vệ hiện trường theo quy định của pháp luật; giải ngay người bị bắt lên cơ quan Công an cấp trên trực tiếp hoặc báo ngay cho Cơ quan điều tra có thẩm quyền.”

Trước đây, Công an xã chỉ có trách nhiệm tiếp nhận tố giác, tin báo về tội phạm, lập biên bản tiếp nhận, lấy lời khai ban đầu và chuyển ngay tin báo kèm theo các tài liệu, đồ vật có liên quan cho cơ quan điều tra có thẩm quyền. Trong khi đó, đơn vị cùng cấp là Công an phường, thị trấn, Đồn Công an ngoài trách nhiệm nêu trên còn phải tiến hành kiểm tra, xác minh sơ bộ đối với tố giác, tin báo về tội phạm trước khi chuyển cơ quan điều tra có thẩm quyền.

Như vậy, công an xã đã được bổ sung thêm nhiệm vụ kiểm tra, xác minh sơ bộ so với quy định trước đây là nhiệm vụ lấy lời khai ban đầu, những nhiệm vụ khác không có sự thay đổi.

2. Loại bỏ quy định chỉ được khởi tố vụ án hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại đối với Tội Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp

Theo đó, sửa đổi khoản 1 Điều 155 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại như sau:

“Điều 155. Khởi tố vụ án hình sự theo yêu cầu của bị hại

Chỉ được khởi tố vụ án hình sự về tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ luật Hình sự khi có yêu cầu của bị hại hoặc người đại diện của bị hại là người dưới 18 tuổi, người có nhược điểm về tâm thần hoặc thể chất hoặc đã chết.”

Cụ thể:

– Điều 134: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe người khác;

– Điều 135: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác trong trạng thái tinh thần bị kích động mạnh;

– Điều 136: Tội cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vượt quá giới hạn phòng vệ chính đáng hoặc do vượt quá mức cần thiết khi bắt giữ người phạm tội;

– Điều 138: Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác;

– Điều 139: Tội vô ý gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác do vi phạm quy tắc nghề nghiệp hoặc quy tắc hành chính;

– Điều 141: Tội hiếp dâm;

– Điều 143: Tội cưỡng dâm;

– Điều 155: Tội làm nhục người khác;

– Điều 156: Tội vu khống.

Thống nhất với quy định trên, quy định về Căn cứ không khởi tố vụ án hình sự cũng được sửa đổi theo hướng:

“Điều 157. Căn cứ không khởi tố vụ án hình sự

Không được khởi tố vụ án hình sự khi có một trong các căn cứ sau:

8. Tội phạm quy định tại khoản 1 các điều 134, 135, 136, 138, 139, 141, 143, 155 và 156 của Bộ luật hình sự mà bị hại hoặc người đại diện của bị hại không yêu cầu khởi tố.”

Như vậy, hiện nay, quy định về khởi tố vụ án hinh sự theo yêu cầu của bị hại đã loại bỏ trường hợp áp dụng đối với Tội Xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp (khoản 1 Điều 226 Bộ luật Hình sự 2015, sửa đổi, bổ sung 2017).

3. Bổ sung các căn cứ tạm đình chỉ giải quyết vụ án hình sự

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự đã bổ sung căn cứ tạm đình giải quyết vụ án hình sự trong các giai đoạn khởi tố, điều tra và truy tố, cụ thể như sau:

Tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố:

Theo khoản 1 Điều 148 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015, khi hết thời hạn giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khở tố, cơ quan có thẩm quyền giải quyết quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố khi thuộc một trong các trường hợp:

– Đã trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp nhưng chưa có kết quả;

– Đã yêu cầu cơ quan, tổ chức, cá nhân cung cấp tài liệu, đồ vật quan trọng có ý nghĩa quyết định đối với việc khởi tố hoặc không khởi tố vụ án nhưng chưa có kết quả.

Hiện nay, bổ sung căn cứ: Không thể kết thúc việc kiểm tra, xác minh để quyết định khởi tố hoặc không khởi tố vụ án vì lý do bất khả kháng do thiên tai, dịch bệnh.

Tạm đình chỉ điều tra:

Khoản 1 Điều 229 Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 quy định cơ quan điều tra ra quyết định tạm đình chỉ điều tra khi thuộc một trong các trường hợp:

– Khi chưa xác định được bị can hoặc không biết rõ bị can đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn điều tra vụ án. Trường hợp không biết rõ bị can đang ở đâu, Cơ quan điều tra phải ra quyết định truy nã trước khi tạm đình chỉ điều tra;

– Khi có kết luận giám định tư pháp xác định bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo thì có thể tạm đình chỉ điều tra trước khi hết thời hạn điều tra;

– Khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp chưa có kết quả nhưng đã hết thời hạn điều tra. Trong trường hợp này, việc giám định, định giá tài sản, tương trợ tư pháp vẫn tiếp tục được tiến hành cho đến khi có kết quả.

Luật số 02/2021/QH15 bổ sung căn cứ: Khi không thể kết thúc điều tra vì lý do bất khả kháng do thiên tai, dịch bệnh nhưng đã hết thời hạn điều tra.

Tạm đình chỉ vụ án

Theo đó, Viện kiểm sát quyết định tạm đình chỉ vụ án trong các trường hợp:

– Khi có kết luận giám định tư pháp xác định bị can bị bệnh tâm thần hoặc bệnh hiểm nghèo thì có thể tạm đình chỉ vụ án trước khi hết thời hạn quyết định việc truy tố;

– Khi bị can bỏ trốn mà không biết rõ bị can đang ở đâu nhưng đã hết thời hạn quyết định việc truy tố; trong trường hợp này phải yêu cầu Cơ quan điều tra truy nã bị can trước khi tạm đình chỉ vụ án. Việc truy nã bị can được thực hiện theo quy định tại Điều 231 của Bộ luật Tố tụng hình sự

– Khi trưng cầu giám định, yêu cầu định giá tài sản, yêu cầu nước ngoài tương trợ tư pháp mà chưa có kết quả nhưng đã hết thời hạn quyết định việc truy tố. Trong trường hợp này, việc giám định, định giá tài sản, tương trợ tư pháp tiếp tục tiến hành cho đến khi có kết quả.

Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 đã bổ sung trường hợp:  Khi không thể tiến hành các hoạt động tố tụng để quyết định việc truy tố vì lý do bất khả kháng do thiên tai, dịch bệnh nhưng đã hết thời hạn quyết định việc truy tố.

Luật số 02/2021/QH15 sửa đổi, bổ sung một số điều của Bộ luật Tố tụng hình sự 2015 được Quốc hội khóa XV, kỳ họp thứ 2 thông qua ngày 12/11/2021,có hiệu lực thi hành kể từ ngày 01/12/2021.